Đói tổn thương dạ dày, no hao tổn tinh thần. Khi quá đói, con người tư duy rất mẫn tiệp. Từ rất lâu rồi, Tả Đăng Phong đã phát hiện ra điều này. Bởi thế cho nên mỗi khi nghiên cứu học tập điển tịch pháp thuật, hắn đều tiến hành lúc bụng rỗng không. Tường thành cao vút, ánh sáng mặt trời ấm áp. Tả Đăng Phong nhanh chóng lật giở lại một quyển "Đạo Đức Kinh". Mãi đến giữa trưa hắn mới buông kinh thư rồi khoanh chân ngồi xuống.
Kể từ khi được vị đạo sĩ thần bí trong đạo quan đổ nát kia truyền thụ phương pháp tụ khí của Tiệt Giáo trở đi, Tả Đăng Phong đã không còn cần phải thường xuyên khoanh chân đả tọa. Tu luyện linh khí chia thành hai bước là tụ khí và luyện khí. Tụ khí hoàn toàn dựa vào việc thu thập linh khí trong trời đất. Luyện khí là dung hợp những linh khí trong trời đất đã thu thập được vào trong người. Tụ khí tiêu tốn thời gian tương đối dài, còn thời gian đả tọa luyện khí lại tương đối ngắn ngủi.
Hiện giờ, Tả Đăng Phong đã bước vào cảnh giới Chí tôn của Âm Dương Sinh Tử Quyết, kế tiếp theo chính là cảnh giới Vô Cùng. Nếu muốn bước vào cảnh giới Vô Cùng, ít nhất cũng cần phải khổ tu sáu mươi năm. Tả Đăng Phong căn bản không có ý định lâu như vậy. Mục đích của việc siêng năng luyện khí là vì hắn mơ hồ cảm giác được cảnh giới Chí Tôn hiện giờ được chia thành ba bậc nhỏ cao trung thấp. Hiện giờ, hắn đang ở bậc thấp nhất, tu vi vẫn còn khả năng tăng lên một quãng ngắn. Hắn muốn tu luyện cảnh giới Chí Tôn tới lô hỏa thuần thanh bởi hai mục đích. Một là, sau này không may gặp phải nguy hiểm, tu vi tăng lên thì có thể ứng phó với bất trắc. Hai là, hắn muốn nhìn thấy rõ hồn phách và âm vật. Lúc này, hắn chỉ có thể cảm nhận được sự hiện hữu của bọn chúng mà không nhìn thấy được.
Hai giờ chiều, Thập Tam thức giấc. Tả Đăng Phong chỉ nghỉ ngơi trong chốc lát. Theo những gì ghi trên thẻ tre, cảnh giới Vô Cùng của Âm Dương Sinh Tử Quyết có thể "Không ngủ không nghỉ, Vĩnh Sinh tự tại", cũng có nghĩa là nếu bước vào cảnh giới này thì sau này không cần ngủ nữa. Nhưng cảnh giới Chí Tôn thì không được như vậy. Thiếu ngủ một chút cũng không sao, nhưng nếu không ngủ trong một thời gian dài thì vẫn không thể chịu đựng được.
Lúc chạng vạng tối, Tả Đăng Phong dẫn theo Thập Tam tiếp tục lên đường. Đến tối, trong rừng có rất nhiều muỗi. Tả Đăng Phong căn bản không dám nghỉ ngơi vào buổi tối.
Tả Đăng Phong ăn uống chẳng theo kiêng dè thứ gì. Trên cây trong rừng có quả xanh và quả mọng gì hắn cũng ăn. Không phải quả dại nào trong rừng rậm cũng có thể ăn được, nhưng bởi hắn có thể cảm giác một cách nhạy bén thứ quả nào có độc. Ngọn nguồn của toàn bộ những điều này là bởi từ sau khi hắn tu hành Âm Dương Quyết, bản năng và trực giác càng ngày càng nhạy bén. Hắn khó mà nói chính xác tại sao lại có cảm giác này, mà chỉ biết là nó vô cùng chuẩn xác.
Ngoài ra, không phải nước suối nào trong rừng cũng có thể uống. Có rất nhiều con suối có vẻ trong lành, nhưng trên thực tế đã bị nước bọt của rắn độc trên thượng nguồn làm nhiễm độc. Bởi vậy, không phải ngày nào Tả Đăng Phong cũng có cơ hội vo gạo nấu cơm, đành phải gặp cái gì ăn cái đó.
Lượt đi lần thứ hai, hắn tìm kiếm từ tây sang đông. Đến giờ, Tả Đăng Phong không thu hoạch được bất kỳ thứ gì. Nhưng có một việc ngẫu nhiên gặp trên đường lại giúp cho hắn cảm ngộ nhân sinh sâu sắc hơn. Đó là lúc ở trong rừng hắn nhìn thấy một con ngựa hoang thọt chân. Con ngựa hoang đó là con cái, còn dẫn theo một con ngựa con. Khi chúng bị một con báo tấn công, lâm nguy sắp chết, Tả Đăng Phong không đành lòng bèn ra tay đuổi con báo đi. Nhưng sau khi con báo bị thương bỏ chạy, Tả Đăng Phong mới phát hiện, thì ra nó dẫn theo mấy con báo con, hơn nữa mấy con báo đó lại rất gầy yếu. Bởi bị thương nên hầu như chắc chắn nó sẽ không thể tiếp tục đi săn, do vậy đám con của nó sẽ chết đói. Chuyện này khiến cho Tả Đăng Phong hết sức rung động. Có đôi khi, từ bi có khả năng chính là tàn nhẫn, mà tàn nhẫn lại có thể chính là từ bi.
Vài ngày tiếp theo, Tả Đăng Phong vẫn không thu hoạch được gì. Thời gian ba ngàn năm đủ khiến cho Thương Hải biến thành Tang Điền. Kiến trúc năm xưa rất ít khả năng có thể bảo tồn đến nay, hơn nữa cây cối trong rừng liền thành một khối kín mít, phải phóng mắt tìm kiếm trong phạm vi hai mươi dặm nhiều khả năng sẽ bỏ qua di tích kiến trúc nấp dưới tàng cây. Tuy nhiên điều này lại hoàn toàn không có biện pháp khắc phục. Nếu đi xuyên qua cây cối trong rừng, thật sự là mất quá nhiều thời gian.
"Bình tĩnh, không nên gấp." Tả Đăng Phong nhiều lần cảnh báo chính mình. Hiện giờ, phương hướng và lộ tuyến của hành động đã được định trước. Nếu như giữa đường buông bỏ, chuyển thành tìm kiếm loạn bậy, hắn sẽ nhớ không nổi nơi nào đã từng tìm kiếm qua, bởi vì trong rừng không có vật tham chiếu rõ ràng. Đến lúc đó, trái ngược lại sẽ càng lãng phí thời gian hơn.
Bảy ngày sau, rốt cục Tả Đăng Phong cũng có phát hiện mới. Đó lại là một tòa thành trì có cùng phong cách với tòa thành hắn gặp lần trước. Tòa thành trì nằm gần chính giữa hướng đông của địa phận nước Dung, cũng chiếm diện tích hơn hai mươi mẫu. Bởi vì nằm khuất gió ở chân phía nam của một ngọn núi, cho nên tòa thành cổ được bảo tồn tương đối nguyên vẹn, vẫn còn có thể nhìn ra hình dáng đại khái của nó. Bên trong thành còn sót lại vài gian phòng ốc, tường thành còn sót lại ba mặt. Thành cổ chỉ có một cửa thành quay mặt ra hướng nam. Trên tường thành có một bệ đá hình vuông khá cao trồi lên. Tuy trải qua không biết bao nhiêu tuế nguyệt, bệ đá đã sụp xuống, nhưng Tả Đăng Phong vẫn đoán ra được, năm xưa nó chỉ được dùng với một mục đích là truyền tin tức. Nói cách khác, đây cũng không phải tòa thành trung tâm của nước Dung, chắc hẳn cũng giống tòa thành đã phát hiện lúc trước ở phía tây nam, chúng đều là vệ tinh bên ngoài của tòa thành trung tâm.
Bởi vì trong thành những cây đại thụ sum xuê và cỏ dại cao ngang thắt lưng mọc um tùm, Tả Đăng Phong không thể nào lục soát kỹ càng được, đành phải vào những căn phòng chưa đổ sụp xuống để tìm kiếm manh mối. Phòng ốc được xây bằng đá, mái bằng, không có cửa sổ, chỉ có cửa chính. Cỏ dại trước cửa đã bị đè rạp xuống theo đường nét chỉnh tề. không cần dựa vào trực giác nhạy cảm, Tả Đăng Phong cũng biết bên trong có một con mãng xà đang chiếm cứ.
Đối với mãng xà, mấy ngày nay Tả Đăng Phong gặp nhiều không đếm xuể. Nếu như có một ngày không gặp mãng xà, trái lại hắn sẽ cảm thấy thiêu thiếu gì đó. Thập Tam không sợ rắn mà trái lại nó cực kỳ thích thú khiêu khích loài rắn. Tả Đăng Phong khẽ gật đầu với nó, Thập Tam hiểu Tả Đăng Phong đồng ý cho mình đi xuống dùng tiếng kêu xua rắn. Hưng phấn nhảy từ trên vai Tả Đăng Phong xuống, nó vọt vào trong nhà. Sau một loạt tiếng gào meo meo, một con cự mãng to cỡ thùng gánh nước bị Thập Tam gào lên đuổi ra ngoài. Đó là con mãng xà lớn nhất mà hắn từng gặp trên đường. Tả Đăng Phong đứng trên nóc nhà nhìn theo con mãng xà ì ạch bỏ chạy. Cùng lúc đó hắn phát hiện ra chiều dài toàn của con rắn phải tới xấp xỉ mười hai mét. Phát hiện này khiến cho Tả Đăng Phong âm thầm nhăn trán nhíu mày. Con mãng xà to như vậy mà mới dài có mười hai mét. Ngày hôm đó, Thập Tam đã dùng cử chỉ mô tả chiều dài của Lục Âm Hỏa Xà trong mười hai địa chi cho hắn biết. Căn cứ vào khoảng cách Thập Tam đã mô tả mà xét, chiều dài của Lục Âm Hỏa Xà phải tới hơn hai mươi mét. Qủa thật là một gia hỏa khổng lồ.
Dường như Thập Tam là khắc tinh của loài rắn độc. Bất kể to lớn tới mức nào, đối phương đều sợ hãi nó ba phần. Dù Tả Đăng Phong không biết nguyên nhân sâu xa bên trong, tuy nhiên nước tiểu của Thập Tam có thể khiến cho Đồng Giáp bùng phát thú tính, cũng khiến cho cương thi lão tía của Cổ hội trưởng đổ vật xuống, cho nên Tả Đăng Phong hoài nghi nước tiểu của nó là vật Thuần Dương. Nhưng hắn cũng chỉ hoài nghi mà không thể nào xác định được. Bởi vì mỗi lần hắn ra lệnh cho Thập Tam đi tiểu, nó đều phớt lờ hắn.
Trong khoảng thời gian ở trong rừng này, Tả Đăng Phong đã phát hiện một điều. Đó chính là động vật trong rừng đều có địa bàn của riêng mình. Mỗi con mãnh thú có hình thể to lớn đều chiếm cứ một khu vực. Trong khu vực của mình, ngoại trừ con mãnh thú đó ra thì rất hiếm khi có con khác. Con cự mãng này hẳn là bá chủ của vùng này, cho nên hơn mười dặm xung quanh sẽ không còn con mãnh thú có hình thể to lớn nào khác nữa.
Sau khi con cự mãng đã chạy ra ngoài, Thập Tam vẫn chưa chịu bỏ qua. Nó cực kỳ ham thích hưởng thụ cảm giác hư vinh và thành tựu khi một tên tí hon truy đuổi một kẻ khổng lồ. Nó ầm ĩ kêu liên tục đuổi con Cự Mãng chạy ra xa. Tả Đăng Phong lắc đầu hết cách rồi xoay người đi vào trong gian nhà đá.
Trong phòng rất rộng rãi. Tuy phòng ốc không có cửa sổ, nhưng độ ẩm rất cao. Hơn nữa, bởi niên đại đã lâu, tất cả đồ vật bằng gỗ trong phòng hầu như đã mục nát không còn ra hình dáng. Mặt đất ở giữa phòng nhẵn bóng. Đó là chỗ con cự mãng nằm cuộn lại. Tất cả đồ vật trong nhà đá đều bị nó quét vào trong góc. Tả Đăng Phong bước tới góc nhà cẩn thận quan sát, phát hiện trên mặt đất có vài món đồ vật bằng đồng đã rỉ xanh nằm tán loạn. Nhưng đáng tiếc, hắn vừa thò tay cầm lên, chúng đã lập tức biến thành một đám bụi màu xanh. Cho dù là đồ đồng cũng không có khả năng tồn tại trong thời tiết nóng ẩm suốt ba ngàn năm.
Đã có vết xe đổ, Tả Đăng Phong không dám tiếp tục thò tay ra cầm lên nữa, chỉ còn cách cúi đầu nhìn cho kỹ. Đám đồ đồng tán loạn trên mặt đất này lớn có nhỏ có. Lớn thì xấp xỉ với cái hòm gỗ đeo sao lưng hắn, nhỏ thì chỉ cỡ lòng bài tay. Có cái hình vuông, có cái thì hình tròn. Xét về mặt hình dáng, chúng không giống với đồ dùng sinh hoạt, cũng chẳng giống đồ cúng tế, mà thực chất có điểm giống với đồ dùng để chứa đựng.
Ngoại trừ đồ đồng, trong góc phòng còn có một vài đồ vật làm bằng đá. Hình dáng cũng tương tự như đám đồ đồng. Đám đồ vật bằng đá được bảo tồn tương đối nguyên vẹn. Tả Đăng Phong vươn tay kéo một cái hộp đá hình vuông lại gần, cúi đầu xem xét. Chiều dài của nó hơn một thước, chiều cao ba mươi mấy centimet, hai bên trái phải có khoan hai lỗ nhỏ. Nắp hộp được thiết kế mở bằng cách kéo đẩy, đang ở tình trạng đóng kín. Hắn kéo nắp hộp ra, phát hiện bên trong không có vật gì, nhưng ở hai bên thành hộp bên trong lại được điêu khắc hình một cái chung rượu. Sau khi trầm tư nghi vấn hồi lâu, rốt cục Tả Đăng Phong suy đoán trước đây cái hộp này có lẽ được dùng để chăn nuôi hoặc là loài thú hoặc là chim chóc nào đó.
Bỏ qua chiếc hộp đá đó, hắn tiếp tục đi quan sát những đồ vật khác, phát hiện ra chúng cũng được dùng đến nhốt hoặc nuôi loài vật nào đó. Mỗi loại hộp khác nhau có lẽ dùng để nuôi một loại động vật riêng biệt. Có cái dùng nuôi thú, có cái nuôi chim. Cái ống đá có hình dáng tương tự như cây trúc có khả năng chỉ dùng để chăn nuôi côn trùng.
Nếu như đổi lại là một thành trì lớn, nếu có phát hiện những đồ vật này Tả Đăng Phong cũng sẽ không thấy lạ. Bởi vì chúng có khả năng chỉ là thứ đồ mà giai cấp quý tộc dùng để thuần dưỡng sủng vật trong lúc nhàn rỗi. Thế nhưng quy mô thành trì này không hề lớn, cư dân chắc hẳn chỉ là tầng lớp sĩ tốt, không có khả năng có quý tộc đẳng cấp rất cao. Nói tóm lại, cho dù có quý tộc ở nơi này, thì y nuôi dưỡng sủng vật thực sự có phần quá nhiều, hơn nữa loài giống cũng quá tạp, con gì cũng nuôi.
Suy tư rất lâu, Tả Đăng Phong vẫn không tìm ra được manh mối, đành tiếp tục chúi đầu vào trong góc tìm kiếm. Sau khi vẹt một đống bụi đồng màu xanh ra, một cây búa đá đập vào mắt.
Đó là một cây búa khổng lồ. Cán búa đã mục nát, nhưng đầu búa vẫn còn. Một cây búa bình thường dài tầm hơn mười centimet, nhưng cây búa đá trước mặt lài dài tới hơn bốn mươi centimet, gấp ba lần một cây búa bình thường. Chính giữa đầu búa bị đục thủng cho thấy rõ, xưa kia nó xác thực đã từng được sử dụng. Tả Đăng Phong cầm cây búa đá lên để thử ước lượng trọng lượng. Hắn phát hiện ra trọng lượng của cây búa đá này tuyệt đối không dưới năm mươi cân.
Tả Đăng Phong mỉm cười ném cây búa đá đi. Theo cách nghĩ của hắn, búa nặng như vậy tuyệt đối không phải là binh khí, bởi vì nó vượt quá khả năng thừa nhận của cánh tay một người bình thường. Thanh Long Yển Nguyệt Đao của Quan Vũ được mệnh danh là tám mươi hai cân, nhưng đó là bởi được tính bằng cân của thời Hán, nếu dùng cân hiện giờ thì chỉ tương đương với tầm ba mươi sáu cân. Cây búa đá này đã vượt quá năm mươi cân, chưa cần nói tới đi đánh trận, chỉ cần mang theo thì đã đủ lao lực.
Hơn nữa, cây búa này cũng không phải vũ khí mà người tu đạo sử dụng, bởi vì cái lỗ được đục chính giữa đầu búa rất lớn. Nếu xét đoán dựa trên độ lớn của cái lỗ đó, thì cán búa xưa kia chắc hẳn phải to bằng cái ống đựng bút, bàn tay người thường căn bản không thể nào nắm vừa được.
Nhưng đúng vào khoảnh khắc ném cây búa đá đi, Tả Đăng Phong bắt gặp trên vách tường đá bên phải căn phòng có mấy vết búa hằn sâu. Nhìn thấy thế, Tả Đăng Phong cầm cây búa đá kia bước tới so sánh, phát hiện vết búa trên tường và lưỡi cây búa hắn cầm hoàn toàn ăn khớp. Nói cách khác, xưa kia cây búa này xác thực là được người ta dùng làm vũ khí.
Phát hiện này khiến cho Tả Đăng Phong hết sức kinh ngạc. Xét trên sức nặng đầu búa và độ lớn của cái cán, chiều cao và cân nặng của người sử dụng cây búa này tuyệt đối vượt xa người bình thường. Thế nhưng chỗ nắm của hòm đá và đồ đồng lại dựa theo cỡ bàn tay của người bình thường để thiết kế và đục đẽo. Nói cách khác, hình thể những người từng sống ở chỗ này tuyệt nhiên không đủ khả năng sử dụng một cây búa nặng như vậy.
Trầm tư hồi lâu vẫn không nghĩ ra nguyên cớ, Tả Đăng Phong bèn vứt cây búa đá đi, tiếp tục dọn dẹp góc tường. Sau khi đã di chuyển hết đống lẫn lộn trong góc đi, hắn phát hiện ra một thứ làm hắn đột nhiên nhăn mặt nhíu mày. Đó một cái đầu lâu. Bởi được chôn lẫn lộn trong đám hỗn tạp nên cái đầu lâu mới thể bảo tồn đến ngày nay. Phát hiện ra đầu lâu người chết ở nơi này, Tả Đăng Phong chẳng lấy làm ngạc nhiên. Điều làm hắn bất ngờ chính là, cái đầu lâu đó vô cùng lớn, áng chừng gấp đôi của một người bình thường.